Thiếu máu não thường xảy ra ở người lớn tuổi nhưng đang ngày càng trẻ hóa. Nếu không được phát hiện và cải thiện kịp thời, bệnh có thể tiến triển thành những tai biến nguy hiểm như nhồi máu não (đột quỵ), chết não. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp cho bạn đọc những mô tả về các tổn thương do thiếu máu não và nguyên nhân hình thành nên chúng.
Phân loại nhồi máu não
Tắc cấp tính một động mạch nội sọ làm giảm lưu lượng máu tới vùng não do nó cấp máu. Độ nặng của giảm lưu lượng máu tùy thuộc vào lưu lượng máu bàng hệ. Lưu lượng máu lại phụ thuộc vào vị trí tắc mạch và đặc tính mạch máu của mỗi người.
★ Lưu lượng máu bằng 0 thì mô não sẽ chết trong vòng 4 tới 10 phút;
★ Lưu lượng <16-18 ml/100m/phút sẽ gây nhồi máu não trong vòng một giờ;
★ Lưu lượng từ 18 tới <20mL/100g/phút gây thiếu máu cục bộ mà không gây nhồi máu, trừ khi tình trạng này kéo dài nhiều giờ tới vài ngày. Nếu dòng máu được khôi phục trước khi có một lượng lớn tế bào não chết, bệnh nhân có thể chỉ có các triệu chứng thoáng qua, gọi là cơn thoáng thiếu máu não (TIA). Các mô não bao quanh vùng lõi nhồi máu chỉ bị thiếu máu cục bộ và chỉ rối loạn chức năng, còn có thể hồi phục và được gọi là vùng tranh tối tranh sáng. Vùng này sẽ trở thành nhồi máu não thực sự nếu không có cải thiện lưu lượng máu kịp thời.
Các giai đoạn tổn thương não khi thiếu máu cục bộ cấp
Đột quỵ thiếu máu não xảy ra do tắc mạch làm mất dòng máu nuôi, dẫn đến nhồi máu não. Nhồi máu não do tắc động mạch được chia thành nhồi máu trắng và nhồi máu đỏ (nhồi máu xuất huyết).
Nhồi máu đỏ là hiện tượng rò rỉ hồng cầu vào vùng mô não thiếu máu và đang chết, và đây không phải là máu tụ trong nhu mô do vỡ một mạch máu.
Nhồi máu tiến triển qua vài giai đoạn:
★ Trong 12 tới 24 giờ đầu sau khởi phát, sang thương khó nhìn thấy được bằng mắt thường.
★ Ngày 3 đến ngày 5, phù não đạt mức tối đa, trong nhồi máu lớn nó có thể ở mức đe dọa tính mạng do đẩy lệch và chèn ép các cấu trúc lân cận.
★ Giữa ngày 5 và ngày 10, vùng não bị nhồi máu trở nên khác biệt rõ với mô não bình thường.
★ Vài tuần tới vài tháng sau khởi phát chuyển sang giai đoạn mạn tính, xuất hiện khoang chứa dịch do tái hấp thu các sản phẩm hoại tử, do đó được gọi là hoại tử hóa nước.
Nguyên nhân gây thiếu máu cục bộ dẫn đến đột quỵ
Hai nguyên nhân chính gây thiếu máu não cục bộ cấp là tắc mạch (do huyết khối hoặc lấp mạch) và do huyết động.
Tắc mạch
Tình trạng này xảy ra do lấp mạch hoặc huyết khối tại chỗ và gây ra tụt giảm đột ngột lưu lượng máu não.
- Lấp mạch não
Vật liệu thuyên tắc được tạo thành trong tim hoặc trong hệ thống mạch máu, di chuyển trong hệ thống động mạch, kẹt lại trong một động mạch nhỏ hơn và làm tắc nghẽn một phần hoặc hoàn toàn động mạch đó.
Vị trí tạo nên nguồn lấp mạch thường là tại tim và các động mạch lớn. Các nguồn lấp mạch chủ yếu là mỡ, cholesterol, khí, vi trùng, tế bào u, và các vật liệu đặc thù từ các thuốc chích vào.
Lấp mạch từ tim chiếm 20-30% trong tổng số đột quỵ thiếu máu não. Các bệnh lý về tim gây nguy cơ lấp mạch cao gồm rung nhĩ, cuồng nhĩ thường xuyên, hội chứng suy nút xoang, huyết khối nhĩ trái, huyết khối tiểu nhĩ trái, u nhầy nhĩ trái, hẹp van hai lá, van tim nhân tạo, viêm nội tâm mạc nhiễm trùng, huyết khối thất trái, u nhầy thất trái, nhồi máu cơ tim mới vùng trước, và bệnh cơ tim giãn nở. Các bệnh lý mang nguy cơ lấp mạch não thấp hoặc không chắc chắn là còn thông lỗ bầu dục, phình mạch vách nhĩ, cản âm tự phát trong nhĩ, vôi hóa vòng van hai lá, sa van hai lá, hẹp van động mạch chủ vôi hóa, u sợi đàn hồi, bướu Lambl khổng lồ, bất động hoặc giảm động vùng ở thành thất, bệnh cơ tim phì đại dưới van động mạch chủ, và suy tim sung huyết.
Lấp mạch từ các động mạch lớn như động mạch chủ, động mạch cảnh ngoài sọ, hoặc động mạch đốt sống và các động mạch trong sọ. Vật liệu thuyên tắc có thể là mảnh vỡ từ mảng xơ vữa, cục máu đông, tiểu cầu kết tập. Đây là cơ chế chính gây đột quỵ do xơ vữa động mạch lớn, nguyên nhân của 15-20% tổng số đột quỵ thiếu máu não.
- Huyết khối tắc mạch
Huyết khối gây tắc mạch là tình trạng tắc dòng chảy do hình thành cục huyết khối từ một quá trình bệnh lý tắc nghẽn bên trong thành mạch máu. Nguyên nhân chính là bệnh lý xơ vữa động mạch, nên được gọi là huyết khối xơ vữa động mạch. Các nguyên nhân khác ít gặp hơn dẫn đến hẹp hoặc tắc mạch gồm bóc tách động mạch (trong hoặc ngoài sọ), loạn sản cơ sợi, co mạch (do thuốc, viêm, hoặc nhiễm trùng), bệnh lý mạch máu do phóng xạ, chèn ép từ bên ngoài như khối u hoặc các sang thương choán chỗ khác, hoặc bệnh moyamoya.
- Bệnh lý mạch máu nhỏ
Tắc mạch do huyết khối ở các động mạch xuyên nhỏ trong não là một nguyên nhân quan trọng khác của đột quỵ thiếu máu não, chiếm khoảng 20-30% tổng số trường hợp.
Nguyên nhân là do:
- Lắng đọng lipohyalin: Lipohyalinosis đặc trung bởi sự thay thế thành mạch bình thường bằng fibrin và collagen và liên hệ đặc biệt với tăng huyết áp
- Mảng vi xơ vữa: là mảng xơ vữa của các động mạch nhỏ
- Hoại tử dạng fibrin: thường kết hợp với tăng huyết áp cực cao, dẫn tới hoại tử các tế bào cơ trơn và thoát mạch các protein huyết tương
- Phình mạch Charcot-Bouchard: là các vùng giãn mạch trên thành các động mạch nhỏ, ở đó có thể hình thành huyết khối gây tắc mạch máu.
Huyết động
Trường hợp động mạch bị tắc hoặc hẹp, nhưng tuần hoàn bàng hệ vẫn đủ thì lưu lượng máu não vẫn được duy trì ở mức đảm bảo cho hoạt động chức năng não ở điều kiện bình thường.
Huyết động bất thường sẽ làm giảm áp lực tưới máu đoạn gần trước sang thương động mạch (như hạ huyết áp tư thế, hoặc giảm cung lượng tim), hoặc có tăng nhu cầu chuyển hóa (sốt, toan hóa máu), hoặc hiện tượng lấy máu từ vùng não của động mạch hẹp/tắc sang vùng não khác (như khi ứ CO2) thì lưu lượng máu não sau sang thương sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu và thiếu máu não cục bộ có thể xảy ra.
Đột quỵ xảy ra qua cơ chế huyết động này chủ yếu nằm ở các vùng ranh giới, là nơi tiếp giáp giữa các vùng tưới máu của các động mạch lớn của não như động mạch não giữa với động mạch não trước hoặc động mạch não giữa với động mạch não sau.
Nguyên nhân xơ vữa động mạch lớn gây đột quỵ
Có bốn nguyên nhân chính từ xơ vữa động mạch có thể gây đột quỵ thiếu máu não:
- Huyết khối được tạo thành trên mảng xơ vữa và gây tắc mạch tại chỗ
- Cục thuyên tắc từ các mảnh vỡ của mảng xơ hoặc từ cục huyết khối trên mảng xơ có thể gây lấp mạch ở các động mạch xa hơn. Vì cục thuyên tắc trôi theo dòng chảy trong mạch máu nên hầu hết cục thuyên tắc từ động mạch cảnh trong sẽ đi vào võng mạc hoặc hai phần ba trước của bán cầu đại não cùng bên.
- Gốc các động mạch nhỏ có thể bị tắc do sự phát triển của các mảng xơ trong động mạch xuất phát ra chúng, như trong động mạch thân nền hoặc đoạn gần động mạch não giữa.
- Giảm mạnh đường kính lòng mạch do phát triển mảng xơ vữa có thể dẫn tới giảm tưới máu và nhồi máu ở vùng não ranh giới xa nơi cấp máu kém nhất
Mảng xơ vữa thường phát triển chậm hoặc yên lặng trong một giai đoạn dài, nhưng có thể đột ngột xuất hiện các vết nứt hoặc loét. Các mảng xơ hoạt động sẽ kích hoạt kết tập tiểu cầu, hình thành huyết khối và thuyên tắc mạch.
Khi có ngưng tim hoặc tụt huyết áp nghiêm trọng, sẽ có nhồi máu não xảy ra ở hai bán cầu trong vùng ranh giới giữa các động mạch chính của não. Vùng ranh giới tưới máu được chia thành hai loại là vùng ranh giới nông hay vùng ranh giới vỏ não, nằm giữa vùng tưới máu của động mạch não trước và động mạch não giữa, hoặc động mạch não giữa và động mạch não sau, và vùng ranh giới sâu hay ranh giới dưới vỏ, nằm giữa vùng tưới máu của các nhánh nông vỏ não và các nhánh xuyên sâu.
Nhồi máu não (đột quỵ) là căn bệnh ít triệu chứng, diễn biến nhanh và gây ra con số thương vong rất lớn. Nguyên nhân chính là do tắc mạch và huyết động. Từ việc hiểu được nguyên nhân sẽ giúp bạn tìm được cách phòng tránh chính xác và hiệu quả ngay từ bây giờ, để tránh những biến chứng đáng tiếc về sau.