Bệnh Gan Nhiễm Mỡ Có Nguy Hiểm Không? Biến Chứng Gan Nhiễm Mỡ

Gan nhiễm mỡ là bệnh có diễn tiến âm thầm nên thường được phát hiện muộn, do đó tỉ lệ biến chứng từ gan nhiễm mỡ sang xơ gan hóa, ung thư gan cũng không ngừng tăng cao. Bài viết dưới đây đề cập đến những tác hại tiềm ẩn của căn bệnh gan nhiễm mỡ, từ đó có cái nhìn tích cực hơn trong việc chủ động kiểm soát các bệnh lý về gan.

Sự tiến triển bệnh

Nói chung, bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu là bệnh tiến triển chậm, cả ở người lớn và trẻ em, nhưng xơ hóa gan tiến triển nhanh ở 20% trường hợp mắc bệnh. Tỷ lệ tiến triển tương ứng với 1 giai đoạn xơ hóa 14 năm ở gan nhiễm mỡ không do rượu, 7 năm ở viêm gan nhiễm mỡ không do rượu và tăng gấp đôi nếu tăng huyết áp động mạch.

Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu được chẩn đoán bằng siêu âm không đi kèm với tỷ lệ tử vong tăng, giả định là do sự tiến triển thành viêm gan nhiễm mỡ không do rượu và xơ hóa là hiếm gặp đối với nhiễm mỡ đơn thuần.

Viêm gan nhiễm mỡ không do rượu đi kèm với tỷ lệ tử vong chuẩn hóa tăng lên so với nhóm bệnh nhân nói chung và bệnh gan là nguyên nhân thường gặp thứ ba gây ra tử vong sau bệnh tim mạch và ung thư.

Những bệnh nhân viêm gan nhiễm mỡ không do rượu bị xơ hóa đi kèm với tăng huyết áp nên được theo dõi chặt chẽ do nguy cơ tiến triển bệnh cao hơn

Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu ở trẻ em là mối quan tâm do khả năng có các biến chứng nặng liên quan đến gan muộn về sau. Xơ gan liên quan đến viêm gan nhiễm mỡ không do rượu đã được báo cáo xuất hiện sớm từ 8 tuổi.

Gan nhiễm mỡ có nguy hiểm không?

Gan nhiễm mỡ chia ra nhiều cấp độ bệnh. Ở giai đoạn 1,2 hay nhiều người còn gọi là gan nhiễm mỡ nhẹ- khi lượng mỡ trong gan chưa quá nhiều thì gan nhiễm mỡ độ 1,2 được đánh giá là căn bệnh không quá nguy hiểm và chưa ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống.

Tuy nhiên, vì các triệu chứng của bệnh không rõ ràng nên nhiều trường hợp giữ bệnh cho tới gan nhiễm mỡ độ 3- đây là giai đoạn nguy hiểm, bởi lượng mỡ trong gan đã khá cao, nếu không kịp thời điều trị hoặc điều trị sai cách có thể dẫn tới những biến chứng nguy hiểm.

Gọi ngay tới tổng đài miễn cước 1800 1591 hoặc kết nối Zalo 0339129576 để được TS.BS Bùi Nguyên Kiểm và các dược sĩ chuyên môn tư vấn về tình trạng gan nhiễm mỡ bạn đang gặp phải.

Biến chứng của bệnh gan nhiễm mỡ

Viêm gan nhiễm mỡ

Gan nhiễm mỡ chia làm 2 loại, gan nhiễm mỡ đơn thuần và viêm gan nhiễm mỡ. Gan nhiễm mỡ đơn thuần, tức là tế bào gan có tích tụ mỡ, gan to lên có mỡ ở trong đó, gan không bị viêm, chức năng gan hoạt động gần như bình thường. Còn viêm gan nhiễm mỡ tức là cũng tích tụ mỡ nhưng gây ra tình trạng viêm gan( làm hư hoại tế bào gan).

Khi bệnh không được chữa trị, các tế bào gan bị mỡ bao phủ nhiều thêm khiến cho hoạt động gan bị suy giảm. Từ đó, khả năng chống độc của gan cũng bị hạn chế, các virus, vi khuẩn, kí sinh trùng cũng nhân cơ hội đó dễ dàng xâm nhập và tấn công gan. Do vậy mà viêm gan nhiễm mỡ là biến chứng hàng đầu cần được cảnh báo sớm đối với các bệnh nhân gan nhiễm mỡ.

Kupffer( một loại đại thực bào nằm ở xoang gan- chuyên ăn các virus, vi khuẩn, ký sinh trùng, hồng cầu giả chết, … tạo phản ứng miễn dịch). Gan chịu tác động của yếu tố nguy hại khiến các tế bào Kupffer bị kích hoạt quá mức dẫn đến phóng thích ra chất interluukin, làm tổn thương các tế bào gan, kích ứng các tế bào gây bệnh viêm gan. Viêm gan nhiễm mỡ làm gia tăng gánh nặng lên gan, khiến gan nhanh chóng suy kiệt, từ đó ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe, làm tăng tỉ lệ tử vong. Do đó, bệnh gan nhiễm mỡ rất cần được kiểm soát sớm để ngăn ngừa diễn tiến nguy hại.

Xơ gan

Gan nhiễm mỡ ở giai đoạn đầu chưa nguy hiểm cho sức khỏe, các triệu chứng xuất hiện không rõ ràng dẫn đến người bệnh cũng không chú ý và có quan tâm chữa bệnh. Tuy nhiên, nếu tỉ lệ mỡ gan vượt 30% trọng lượng gan, gan nhiễm mỡ có thể chuyển sang xơ gan. Khi người bệnh tiếp tục sử dụng rượu bia, các chất kích thích, chất béo sẽ tiếp tục tàn phá gan.

Biến chứng xơ gan do gan nhiễm mỡ dưới góc nhìn khoa học là sự biểu hiện hoạt động quá tải của các tế bào Kupffer, dẫn tới tăng sinh sản TGF-β kích hoạt tế bào Stellate tạo ra sợi xơ trong gan. Khi các sợi xơ càng nhiều, gan càng bị tổn thương, hoại tử tế bào gan, biến đổi cấu trúc gan, hình thành mô sẹo chai cứng dẫn tới bệnh lý xơ gan. Biểu hiện của bệnh xơ gan có thể là xuất huyết tiêu hóa, phù chân, trướng bụng, hôn mê gan,… Tỉ lệ tử vong có thể lên đến 85% trong vòng 5 năm nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời và đúng đắn.

Ung thư gan

Nghe tới “ung thư” chắc ai cũng biết độ nghiêm trọng của biến chứng này. Khi các tình trạng viêm gan, xơ gan không được điều trị và các để các tác nhân xấu tiếp tục tấn công, tế bào Kupffer vẫn tiếp tục bị kích hoạt quá mức sẽ phóng tiết ra nhiều chất gây viêm. Đây là những chất làm tăng tình trạng chết tự nhiên của tế bào gan. Tế bào gan chết hàng loạt dễ dẫn đến nguy cơ đột biến tự phát- nguyên nhân gây ung thư gan.

Người mắc bệnh ung thư gan có tuổi thọ phụ thuộc vào thể trạng người bệnh, mức độ bệnh, phương pháp điều trị bệnh, … Nếu được phát hiện sớm, kích thước khối u còn nhỏ và được khống chế kịp thời có thể kéo dài thời gian thêm 5 năm. Còn trường hợp ung thư giai đoạn cuối( xuất hiện các biểu hiện: vàng da, vàng mắt, trướng bụng, khối u gan to xâm lấn các phân thùy, ..) chỉ có thể điều trị giảm đau để kéo dài sự sống thêm từ 3 đến 6 tháng.

Ung thư biểu mô tế bào gan

Các nghiên cứu dịch tễ đã tìm mối liên hệ giữa béo phì, tiểu đường loại 2 với nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan- đây cũng là tình trạng biến chứng cảnh báo của gan nhiễm mỡ. Và tỉ lệ ung thư biểu mô tế bào gan do gan nhiễm mỡ cao gấp hơn 10 lần so với do tiểu đường loại 2 và béo phì.

Những bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan liên quan với bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu lớn tuổi hơn những bệnh nhân bị ung thư biểu mô tế bào gan không liên quan với bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu, có nhiều bệnh đi kèm ngoài gan hơn nhưng tỷ lệ mắc mới xơ gan thấp hơn (chỉ 2/3 các trường hợp).

Số lượng lớn các trường hợp mắc bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu có nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan làm cho việc theo dõi có hệ thống phần lớn không thể thực hiện được. Các đa hình của gen PNPLA3 rs738409 C>G có liên quan với tăng nguy cơ ung thư biểu mô tế bào gan và có thể cung cấp phân tầng nguy cơ theo bệnh nhân để theo dõi ung thư biểu mô tế bào gan chi tiết trong bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu nhưng vẫn chưa được xem xét về mặt chi phí-hiệu quả.

Mặc dù bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu là một yếu tố nguy cơ đối với ung thư biểu mô tế bào gan, nó cũng có thể phát triển trong giai đoạn tiền xơ gan, và nguy cơ này tăng thêm do sự hiện diện của đa hình PNPLA3 rs738409 C>G, hiện nay không có bất kỳ khuyến cáo nào có thể được đưa ra về thời gian theo dõi và về chi phí-hiệu quả.

Bệnh tim mạch

Bệnh tim mạch là nguyên nhân gây tử vong thường gặp hơn so với bệnh gan trong bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu. Trong hầu hết các nghiên cứu, các chỉ điểm sinh hóa của xơ vữa động mạch (giảm HDL cholesterol, tăng triacylglycerol) hoặc viêm (protein phản ứng C (CRP) nhạy cảm cao) và tăng nồng độ của yếu tố trợ đông/ prothrombin thường gặp hơn trong bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu so với ở những người không bị nhiễm mỡ.

Các tổn thương tiền xơ vữa động mạch như tăng độ dày nội trung mạc động mạch cảnh; vôi hóa động mạch vành, động mạch chủ bụng và van động mạch chủ; rối loạn chức năng nội mô và không đáp ứng về chức năng của thành động mạch thường gặp hơn ở bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu.

Trong nhóm bệnh nhân nói chung, nhiễm mỡ được phát hiện bằng siêu âm và những chỉ điểm đại diện của nó (ví dụ chỉ số gan nhiễm mỡ – FLI) đi kèm với nguy cơ cao hơn về tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch trong thời gian dài và nguy cơ tăng thêm ở bệnh viêm gan nhiễm mỡ không do rượu và xơ hóa tiến triển .

Bệnh tim mạch nên được xác định ở bệnh nhân gan nhiễm mỡ không do rượu bất kể sự hiện diện của các yếu tố nguy cơ truyền thống. Ngược lại, việc sàng lọc bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu nên được thực hiện ở những người có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao. Mối liên quan giữa γ-glutamyltransferase (GGT) trong huyết thanh và tỷ lệ mắc mới bệnh tim mạch đã được thiết lập theo thời gian mặc dù nó không đủ cho việc thiết lập các đề cương theo dõi. Đáng chú ý là các yếu tố nguy cơ bệnh tim mạch và chuyển hóa cũng được báo cáo ở thiếu niên và trẻ em bị bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu.

Các biến chứng tim mạch thường quyết định kết quả của bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu và việc sàng lọc hệ tim mạch là điều bắt buộc ở tất cả mọi người, ít nhất là bằng việc đánh giá yếu tố nguy cơ chi tiết

Các rối loạn ngoài gan khác

Bệnh thận mạn tính (CKD) có thể được phát hiện ở 20-50% bệnh nhân bị bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFLD), đặc biệt là trong viêm gan nhiễm mỡ không do rượu được chứng minh bằng sinh thiết. Bệnh gan nhiễm mỡ được xác định bằng siêu âm mang nguy cơ bệnh thân mạn tính xảy ra bất ngờ được điều chỉnh gấp 1,5-2 lần trong bệnh đái tháo đường loại 1.

Bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu cũng liên quan với ung thư đại -trực tràng, bệnh xương do chuyển hóa (thiếu hụt vitamin D, loãng xương) và các bệnh chuyển hóa hiếm gặp (loạn dưỡng mỡ, bệnh dự trữ glycogen).

Bài viết liên quan